tránh bệnh trầm cảm là một trong những keyword được search nhiều nhất trên google về chủ đề tránh bệnh trầm cảm Trong bài viết này hoidapsuckhoe.vn sẽ viết bài Tổng hợp mỏi nhức mắt mới nhất 2020.
Tổng hợp tránh bệnh trầm cảm mới nhất 2020
Trầm cảm là một bệnh phổ biến hiện đứng hàng thứ tư trên toàn cầu về tại sao gây ảnh hưởng lâu dài đến đời sống của người bệnh. Tới năm 2020 nó sẽ là nguyên nhân đứng hàng thứ hai. Những công đoạn của trầm cảm nặng (Major Depression Disorder) nếu không được điều trị thường có khuynh hướng tái phát và tái diễn với phần trăm tự sát cao.
Cơ chế bệnh sinh của trầm cảm gồm có những yếu tố sinh học cũng như tâm lý và thế giới . Những nguyên nhân rủi ro gây trầm cảm bao gồm : di truyền, giới nữ, mất cha mẹ sớm, địa vị kinh tế không gian thấp, nhà ở thiếu thốn cũng giống như stress trong cuộc sống và stress mãn tính, k được chăm sóc đa số lúc bé, ly thân hoặc ly dị, mất người thân, mất việc, lạm dụng rượu và chất gây nghiện.
Những thành phần bảo vệ (trong phạm vi refresh thể trạng tâm trí) nên được note. Những nguyên nhân đó gồm có sự quan hệ tốt giữa cha mẹ và con cái suốt thời gian niên thiếu, có nền tảng hỗ trợ không gian (từ gia đình, bạn bè, những câu lạc bộ thế giới, v…v…), xây dựng và duy trì được sự tự trọng (đặc biệt đề cập đến sự hoàn thành công việc được giao), sự tư vấn thêm vào dành cho một mình và gia đình, những hoạt động tự lo được cho chính mình, support v? Tâm lý (đặc biệt ở những giai đoạn khủng hoảng) v…v…
Một số những can thiệp phòng ngừa ở những nhóm có rủi ro cao cho thấy là có kết quả, bao gồm những can thiệp sinh lý học và tâm lý xã hội giống như huấn luyện khắc phục vấn đề và những công thức tâm lý hành vi-nhận thức.
Những biện pháp phòng ngừa trầm cảm tập hợp vào những điều sau:
Phát hiện những người có nguy cơ trầm cảm càng sớm càng tốt (phòng ngừa ban đầu).
Chẩn đoán sớm và điều trị hữu hiệu tại bệnh viện (phòng ngừa bước hai).
Phòng ngừa tái diễn (phòng ngừa bước ba).
Cũng nên chú ý đặc biệt tới những rối loạn trầm cảm nhẹ hoặc chưa đầy đủ các triệu chứng. Những rối loạn này có thể trùng lặp lấp nhau và với rối loạn trầm cảm nặng.
Thầy thuốc ở tuyến cơ sở thường có thời cơ sớm nhất để can thiệp vào công đoạn đầu của bệnh và ở những group bệnh nhân đặc biệt như:
– Trẻ con và thiếu niên thường bị những sang chấn tâm lý gây ra những rối loạn cảm xúc xây dựng đau đớn về tình cảm. Ở nhóm tuổi này việc phòng ngừa những hậu quả về một rối loạn trầm cảm không được điều trị như tự sát là rất quan trọng.
– Ở phụ nữ, trong nhiều công đoạn của cuộc đời có thể xuất hiện bệnh trầm cảm k được chẩn đoán và thường không được điều trị (tiền kinh nguyệt, hậu sản, mãn kinh)
– Ở đàn ông, trầm cảm thường có liên quan với rượu và ghi nhận có % tự sát cao.
– Ở người già, những bệnh tật thường xảy ra do lão hóa hay kết hợp với trầm cảm. Trầm cảm xuất hiện muộn ở người cao tuổi thường có phần trăm tự sát thành công cao và tỷ lệ tử vong cao do những nguyên do không giống.
– Ở những bệnh nhân bị bệnh cơ thể nặng thường phối hợp với trầm cảm. Thầy thuốc đa khoa là người đầu tiên mà bệnh nhân tìm đến để được chữa trị.
PHÒNG NGỪA TRẦM CẢM Ở TUYẾN CƠ SỞ:
Trầm cảm là một rối loạn thường gặp ở cơ sở chăm sóc thể trạng (CSSK) ban đầu. Những tìm hiểu về dịch tể gần đây ở những đất nước khác nhau cho thấy tỷ lệ bệnh suốt đời đối với trầm cảm nặng là 3-17% và loạn khí sắc là 2-7%. Công việc quan trọng nhất tại cơ sở CSSK ban đầu là tìm ra những người có nguy cơ bị trầm cảm càng sớm càng tốt và support gia đình người bệnh chăm sóc bệnh nhân hoặc đưa chủ đề của họ ra những đơn vị hỗ trợ an sinh không gian (phòng ngừa ban đầu), xây dựng chữa trị hữu hiệu (phòng ngừa mức hai). Những nhân sự y tế tại cơ sở CSSK ban đầu cũng nên tham dự vào việc giúp những bệnh nhân bị trầm cảm để phòng ngừa tái cơn (phòng ngừa mức ba).
Trầm cảm thường xuất hiện với nhiều than phiền về cơ thể giống như mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, đau đầu, giảm cân, bất lực, chán hoặc thèm ăn trong khi những triệu chứng trầm cảm có thể không xuất hiện hoặc k nổi bật . không những thế, ngay cả khi được chẩn đoán là trầm cảm, nhiều bệnh nhân từ chối được điều trị thêm vào. Những bệnh nhân này đủ nội lực không tự nhận thức được những nguyên nhân của những triệu chứng nói trên và thường chỉ than phiền với thầy thuốc những biểu hiện trên cơ thể. Những bệnh nhân này thường miễn cưỡng chấp nhận những nguyên nhân tâm lý của những triệu chứng cơ thể. hơn nữa thầy thuốc ban đầu nên cảnh giác với việc bệnh nhân phủ nhận vì sợ bị thành kiến.
Trầm cảm thường kết hợp với những rối loạn lo âu, rối loạn điều chỉnh, rối loạn bị ám hình cưỡng chế, rối loạn căng thẳng sau chấn thương, rối loạn ăn uống, rối loạn về làm chủ xung động, lạm dụng và dựa vào thuốc gây nghiện-rượu, ham mê cờ bạc có tính bệnh lý, nhức nửa đầu, chứng đau nhức sợi cơ và hội chứng kích like ruột. Sự link về bệnh này nên luôn được ghi nhớ trong khi tiến hành chẩn bệnh.
Mặc dù tỉ lệ cao của trầm cảm ở các cơ sở CSSK ban đầu, nhưng luôn luôn k được chẩn đoán và điều trị thích hợp. nên có một cách tiếp cận người bệnh giúp chẩn đoán rối loạn trầm cảm lệ thuộc những thông tin về triệu chứng, những xét nghiệm cận lâm sàng, tiền sử gia đình và cá nhân về rối loạn xúc cảm, những thông tin từ người thân hoặc những người thầy thuốc không giống.
phần lớn bệnh nhân này đủ nội lực được điều trị sự phát triển ở các cơ sở CSSK ban đầu. mục đích của việc điều trị sớm là thúc đẩy càng sớm càng tốt một trạng thái ổn định, không còn các triệu chứng, phục hồi đầy đủ chức năng tâm lý thế giới và có được một thể trạng dài hạn. Chiến lược can thiệp thường được sử dụng để điều trị trầm cảm ở công đoạn đầu bao gồm liệu pháp sử dụng thuốc, liệu pháp tâm lý cá nhân hỗ trợ và tư vấn gia đình.Việc điều trị nên được thực hiện cùng với sự cộng tác của một bác sĩ tâm thần. so với những bệnh nhân khó điều trị hoặc chống lại điều trị, hoặc bệnh nhân có ý định tự sát cao và hoặc đang âm mưu tự sát thì rất cần sự cộng tác của một bác sĩ tâm thần và/hoặc phải nhập viện vào bệnh viện tâm thần.
PHÒNG NGỪA TRẦM CẢM Ở TRẺ EM VÀ THIẾU NIÊN
Suốt nhiều thập niên qua, các nghiên cứu lâm sàng cho thấy trầm cảm nơi thiếu niên và trẻ em thường biểu hiện bằng các triệu chứng như chông gai trong hành vi, bệnh về cơ thể, và thất bại về học tập. ngoài ra những nghiên cứu dịch tễ học mới đây cho thấy trẻ em và thiếu niên có thể được chẩn đoán phần nào cùng một hướng dẫn như ở người lớn, miễn là note có thêm một số những đặc tính trầm cảm đặc trưng.Trầm cảm là chủ đề sức khỏe tâm thần thường xảy ra ở tuổi thiếu niên. Theo y văn cho đến nay, 27% người trẻ có vấn đề về sức khỏe tâm thần, bao gồm rối loạn về khí sắc và/hoặc lo âu, cũng giống như rối loạn tư cách và lạm dụng các chất. số lượng của rối loạn trầm cảm nặng được ước lượng là 2% ở trẻ em và 4% tới 8% ở thiếu niên.
Một sự tương tác khó khăn giữa những nguyên nhân sinh học, tâm lý học, môi trường và không gian đóng góp vào sự phát sinh những rối loạn khí sắc ở trẻ em và thiếu niên. Những can thiệp phòng ngừa đủ nội lực đạt được hiệu quả tối ưu nếu chú ý đến những dấu hiệu lâm sàng đặc biệt về trầm cảm ở tuổi này. Những triệu chứng chính của trầm cảm ở người to và thanh thiếu niên thì giống nhau, nhưng sự xuất hiện những triệu chứng đặc hiệu có thể khác nhau ở những group tuổi bệnh nhân. Những triệu chứng k đặc hiệu hoặc không điển ảnh giống như chán nản, lo âu, không điều chỉnh được, rối loạn giấc ngủ, bứt rứt và loạn cảm ưu thế ở người trẻ tuổi. bên cạnh đó ở những bệnh nhân trầm cảm trẻ hay đi kèm các rối loạn không giống như rối loạn lo âu, rối loạn cư xử, rối loạn tăng trưởng do giảm sút để ý, có chông gai học tập, và không chịu đi học.
Những thiếu niên bị trầm cảm đủ nội lực có các triệu chứng trầm cảm cổ điển như mệt mỏi, mất hứng thú trong các hoạt động hàng ngày, cải thiện trọng lượng cơ thể, rối loạn giấc ngủ, buồn bã, khó tập hợp, hành vi kích động hay chậm chạp, có suy tư là mình vô dụng và hay suy nghĩ về cái chết cùng với một số hành vi liều lĩnh, cũng giống như gặp khó khăn trong học tập hoặc học kém, lạm dụng chất, than phiền bệnh cơ thể và rối loạn về ăn uống.
Trầm cảm rất hay dẫn đến tự tử. Những thiếu niên thời nay easy tự sát hơn những thế hệ trước. Những nguyên do gây ra gồm có sự gia tăng tỷ lệ rối loạn trầm cảm, tăng trưởng lạm dụng chất, tuổi dùng chất gây nghiện trẻ hơn, gia tăng sang chấn tâm lý thế giới và gia tăng những phương tiện tự sát sẵn có. Việc phát hiện sớm và điều trị trầm cảm ở người trẻ đủ nội lực giảm được hiện trạng bệnh lý, chết chóc và những nguy cơ do những hành vi k thêm vào. mục đích phù hợp để phòng ngừa trầm cảm ở trẻ em và thiếu niên là những chương trình phòng ngừa bước đầu.
Những chiến lược điều trị bao gồm giáo dục tâm lý như huấn luyện cha mẹ skill chăm sóc con cái, mang các chương trình chăm sóc sức khỏe vào trường học, trị liệu tâm lý và trị liệu bằng thuốc cũng giống như tâm lý liệu pháp gia đình. Những yếu tố rủi ro gây trầm cảm ở trẻ em và thiếu niên bao gồm thiếu thốn về kinh tế-xã hội, sự chết chóc của cha mẹ, trầm cảm sau sinh nơi người mẹ, chỉ sống với mẹ và cha mẹ bị trầm cảm. Con cái của cha mẹ bị trầm cảm là nhóm có rủi ro cao và vừa mới nhận được sự chú ý nhiều trong những năm Hiện nay. rủi ro đối với group trẻ này gia tăng một cách đáng kể do yếu tố di truyền cũng giống như những thành phần tâm lý xã hội. Sự phát hiện sớm và điều trị tích cực ở giai đoạn đầu của trầm cảm trong nhóm này là rất quan trọng trong việc giảm được sự phát bệnh, phí tổn và các bệnh đi kèm với trầm cảm.
Liệu pháp tâm lý và dược lý đều đóng góp tốt vào điều trị giai đoạn cấp của trầm cảm hoặc rối loạn khí sắc ở thiếu niên. Liệu pháp hành vi-nhận thức ảnh giống như là một điều trị hiệu quả dành cho những triệu chứng trầm cảm hoặc rối loạn trầm cảm nhẹ ở trẻ em và thiếu niên. Trẻ em và thiếu niên bị trầm cảm lưỡng cực, k điển hình, hoặc nặng thường đáp ứng với những thuốc chống trầm cảm.
Những hiệu quả của các thí nghiệm đối chứng giả dược mù đôi với những thuốc chống trầm cảm thế hệ mới (SSRIs) vừa mới cho thấy kết quả đáng kể của thuốc chống trầm cảm. ngoài ra những kết quả này không tiếp tục.
hơn nữa khi so sánh SSRIs với TCAs ,SSRIs cho dung nạp tốt hơn và an toàn hơn , nhưng phần đông nghiên cứu cho thấy k có sự không giống biệt gì về mặt hiệu quả và thời gian khởi phát tác động của thuốc. Những nghiên cứu xây dựng thường cho thấy điều trị bằng SSRIs thường kéo đến những refresh triệu chứng tốt hơn ở những người trẻ bị trầm cảm nặng. tuy nhiên, trong thực hành lâm sàng cho thấy trong những trường hợp khó khăn các thuốc cổ điển (TCAs) hiệu quả hơn.
tóm lại, một hoàn cảnh an toàn và được tư vấn support hoặc những điều trị đặc biệt như liệu pháp hành vi nhận thức tìm hiểu hoặc liệu pháp tâm lý giữa cá nhân với nhau (interpersonal psychotherapy) được coi giống như những can thiệp trị liệu hữu hiệu ở trầm cảm trẻ em và thiếu niên. Liệu pháp hóa dược được dùng trong những rối loạn trầm cảm nặng, hoặc khi điều trị tâm lý thất bại.
HỘI CHỨNG TRẦM CẢM Ở NHỮNG công đoạn ĐẶC BIỆT TRONG cuộc sống PHỤ NỮ
Trầm cảm ở phụ nữ xảy ra gấp hai lần so với nam giới. Những yếu tố sinh học, tâm lý và không gian đóng góp vào việc tăng trưởng bệnh trầm cảm ở phụ nữ, ảnh hưởng đếm sự sinh sản của họ, cả trong công việc và đời sống gia đình. Rối loạn khí sắc ở phụ nữ bao gồm những hội chứng trầm cảm xảy ra trong những công đoạn đặc biệt của cuộc sống như trầm cảm tiền kinh nguyệt, những rối loạn khí sắc sau sanh và rối loạn khí sắc liên quan đến thời đại mãn kinh.
Những đặc điểm lâm sàng của trầm cảm tiền kinh nguyệt (PDS) là khí sắc trầm cảm và những cảm giác mất hi vọng, lo âu và căng thẳng, cảm xúc k ổn định, phản ứng, bứt rứt và giảm ham thích hoạt động. Những triệu chứng này thường xảy ra ở tuần cuối của giai đoạn hoàng thể ở phần lớn các chu kì kinh nguyệt và biến mất ngay sau khi có kinh. Ước lượng 20-70% phụ nữ bị hội chứng PDS. so với những trường hợp nhẹ thì những phương pháp điều trị cũ còn phù hợp. Nhiều bệnh nhân đáp ứng với liệu pháp tâm lý cá nhân hoặc group. Những thay đổi trong lối sống được đề xuất bao gồm giảm muối, chocolate, café, thuốc lá và rượu. Những kĩ năng chữa trị áp lực thường phối hợp với vận động đều đặn cũng đủ sức được dùng. Ở những phụ nữ không đáp ứng với những liệu pháp cũ, thì nên điều trị bằng thuốc hướng thần hoặc liệu pháp hormone.
Rối loạn khí sắc sau sanh thường phổ biến, ước lượng có 80% phụ nữ bị triệu chứng trầm cảm trước hoặc sau khi sanh.
Hai rối loạn trầm cảm chính có liên quan đến việc sinh sản là “Baby blues” và trầm cảm hậu sản. “Baby blues là một rối loạn khí sắc nhẹ, thoáng qua và rất thường xảy ra sau khi sanh, ảnh hưởng tới 25-85% sản phụ. Những triệu chứng thường xuất hiện trong những ngày đầu sau sanh và biến mất sau đó k lâu. ngoài ra, ở một số phụ nữ có cơ địa dễ tổn thương, triệu chứng này có thể lâu hơn và kéo đến những rối loạn nghiêm trọng. Ước lượng 10-20% phụ nữ có nguy cơ xuất hiện giai đoạn trầm cảm nặng sau khi sanh (PPD), trong vòng 1 tháng sau sanh. Về triệu chứng học thì hội chứng này tương tự với một công đoạn trầm cảm nặng, gồm có khí sắc trầm cảm, mất sự chú ý và đam mê, thay đổi đáng kể về sự thèm ăn hoặc cân nặng, rối loạn giấc ngủ, cảm thấy mình vô dụng, có suy nghĩ tự sát, v…v… . PPD đủ sức có các nét loạn thần (liên quan chủ yếu đến đứa trẻ mới sanh), những suy nghĩ ám ảnh (thường liên quan đến bạo lực so với đứa trẻ), lo âu nhiều, những cơn hoảng loạn. suy nghĩ và hành vi giết đứa trẻ ngay sau khi sanh đủ sức xảy ra trong trường hợp PPD trầm trọng với những hoang tưởng hoặc ma giác.
Những yếu tố nguy cơ bị PPD bao gồm tiền căn có những rối loạn khí sắc sau khi sanh, có tiền căn rối loạn lưỡng cực và nhiều những nguyên do gây căng thẳng có tính xã hội, kinh tế, gồm có những biến cố căng thẳng trong đời sống, thiếu sự hỗ trợ của thế giới, nghề nghiệp k ổn định, vỡ plan sanh đẻ, sống cá nhân, …
phương pháp điều trị rối loạn khí sắc liên quan đến thai kì thường đòi hỏi nhiều chuyên khoa.
Những kỹ thuật liệu pháp tâm lý giúp bệnh nhân đồng ý vai trò sử dụng mẹ và cần được sự hỗ trợ tích cực của người chồng và gia đình. Những thuốc chống trầm cảm là điều trị chọn trong PPD. Cần lưu ý rằng all những thuốc điều trị tâm thần khi cho một bà mẹ đã nuôi con sau khi sanh sẽ tiết ra trong sữa mẹ. SSRIs và TCAs được coi là ít nguy cơ nhất so với trẻ, nhưng các thuốc ổn định khí sắc phải được sử dụng rất cẩn thận. Thuốc chống loạn thần không được dùng cho các bà mẹ đã cho con bú.
Mãn kinh là một giai đoạn biến động sinh lý và tất yếu xảy ra ở phụ nữ từ 40 tới 50 tuổi. Sự biến động qua mãn kinh có ba giai đoạn: ngay trước khi mãn kinh, mãn kinh và sau mãn kinh.
Những refresh nội tiết rõ rệt trong thời kì mãn kinh như: giảm nồng độ estrogen, progesterone và androgens trong huyết tương tác động đáng kể về sinh học, tâm lý học và xã hội học của người phụ nữ bình thường. Trong giai đoạn này, phần lớn phụ nữ có những triệu chứng cơ thể giống như những cơn bốc hỏa, mồ hôi lạnh ban đêm, mất ngủ, nhịp tim mau, chóng mặt, thở nông và khô âm đạo.
Hai thể lâm sàng chính của hội chứng khí sắc tiền mãn kinh được báo cáo. Hội chứng thứ nhất là loạn cảm tiền mãn kinh, có đặc điểm là bứt rứt, thiếu hứng thú, rối loạn giấc ngủ, lo âu, xúc cảm không ổn định, rối loạn khí sắc, easy khóc, khó tập hợp, mệt mỏi và giảm tính dục. Hội chứng này được cho là do thay đổi về hormone. Hội chứng thứ hai là trầm cảm tiền mãn kinh. Hội chứng này có thể là công đoạn trầm cảm nặng đầu tiên hoặc sự tái phát của một rối loạn cảm xúc nặng ở phụ nữ, mà sự refresh về hormone hoạt động giống như là một cơ chế kích hoạt.
Những yếu tố nguy cơ của rối loạn khí sắc lúc bắt đầu mãn kinh gồm có sự hiện diện của hội chứng loạn cảm hoặc trầm cảm tiền kinh nguyệt, rối loạn trầm cảm hoặc loạn cảm có liên quan đến sử dụng thuốc tránh thai uống, tiền sử gia đình có rối loạn khí sắc, thể trạng thể chất kém và nhiều chấn thương tâm lý xã hội giống như ly dị, ly thân hoặc mất chồng, trình độ học vấn thấp, con cái bỏ nhà ra đi, ….
Có chứng cớ cho thấy liệu pháp hormone (HRT) bằng estrogen, estrogen-progesteron hoặc hòa hợp estrogen-androgen đủ nội lực giúp phụ nữ mãn kinh k bị những triệu chứng thể chất cũng như những triệu chứng trầm cảm nhẹ. Trầm cảm mãn kinh giai đoạn đầu đủ nội lực được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm thêm vào. SSRIs thường được chỉ định do ít tác dụng phụ và an toàn. Những kết quả Hiện nay cho thấy HRT đủ nội lực tăng cường cung cấp chống trầm cảm của SSRIs ở một số phụ nữ mãn kinh bị trầm cảm.
tổng kết, do phụ nữ easy bị trầm cảm, các thầy thuốc ở các chuyên ngành nghề liên quan tới phụ nữ, các bác sĩ phụ khoa, cần sử dụng quen với chẩn đoán trầm cảm và những triệu chứng khí sắc liên quan. Họ nên phát hiện những rủi ro để ngăn ngừa sự phát bệnh hoặc để chẩn đoán ở giai đoạn sớm rối loạn trầm cảm có liên quan đến một công đoạn đặc biệt kênh cuộc sống phụ nữ. Sự điều trị sớm trầm cảm rất cần thiết để phòng ngừa những hậu quả nguy hại đủ nội lực xảy ra của trầm cảm. thêm nữa, sự can thiệp sớm được cho là làm giảm được những vấn đề hôn nhân hoặc gia đình có liên quan đến trầm cảm của người mẹ cũng giống như tác động có hại của trầm cảm ở mẹ lên con cái.
HỘI CHỨNG TRẦM CẢM Ở ĐÀN ÔNG
rạch ròi là phụ nữ hay bị trầm cảm hơn đàn ông, điều nghịch lý được ghi nhận là đàn ông tự tử nhiều gấp 5 lần phụ nữ. đưa đến giả thuyết cho rằng đủ nội lực do một hội chứng trầm cảm đặc biệt ở đàn ông (Male Depression Syndrome/ MDS). MDS không giống đáng kể với trầm cảm phụ nữ, đó là đàn ông bị trầm cảm uống rượu nhiều hơn, dễ gây hấn và có khả năng tự sát cao hơn phụ nữ. MDS có đặc tính chủ yếu là suy nghĩ trầm cảm, chịu đựng áp lực kém, dễ gây hấn biểu lộ qua hành vi, cấp độ kiểm soát xung động kém, thiếu kiên quyết, dễ bực bội, chống đối xã hội, lạm dụng chất, nghiện rượu và tự sát. Khó đánh giá những triệu chứng trầm cảm trên có liên quan với việc dùng rượu hay nó là một phần của rối loạn trầm cảm nguyên phát. bên cạnh đó nhiều loại rối loạn tư cách thuộc nhóm B (chống đối xã hội, ranh giới, tự yêu) cùng tồn tại.
Về cơ chế bệnh sinh thì việc giảm hoạt động của serotonin được coi là lý do của trầm cảm, nghiện rượu và bạo lực (gây hấn, tự sát cũng như xung động).
Điều trị MDS, đã có nhiều chứng cớ về sự hữu hiệu của các thuốc ảnh hưởng lên hệ thống serotonin (SSRIs) đối với trầm cảm cũng giống như tính dễ gây hấn, hành vi xung động và rối loạn nhân cách bệnh lý.
TRẦM CẢM Ở người cao tuổi
Trầm cảm là rối loạn tâm thần tính năng thường xảy ra nhiều nhất ở cuối đời. Có rủi ro cao về bệnh lý và tử vong do những bệnh cơ thể đi kèm và tự sát. Có chứng cớ về sự tăng tự sát có liên quan đến tuổi tác, cũng như cấp độ xuất hiện trầm cảm che dấu, trầm cảm nhẹ và trầm cảm thứ phát nơi người cao tuổi.
Chẩn đoán trầm cảm nặng lệ thuộc sự nhận ra những triệu chứng chính như khí sắc trầm cảm, mất hứng thú, ăn k ngon, rối loạn giấc ngủ, có ý tưởng tự sát v.v..Tuy nhiên, nơi những bệnh nhân tâm thần cao tuổi, có khó khăn trong chẩn đoán, bởi vì những triệu chứng trầm cảm cổ điển này đủ sức bị che đậy bởi chứng nghi bệnh, những than phiền về bệnh cơ thể, cảm giác thù nghịch, dễ bực bội, hoang tưởng và suy giảm hoạt động nhận thức.
Trầm cảm nặng ở người già thường phát triển mãn tính , dễ tái phát, thường k tuân thủ điều trị và có nhiều hậu quả nghiêm trọng giống như tự sát, dinh dưỡng kém, mất nước, phục hồi kém từ những bệnh nội khoa kèm theo và phải sử dụng nhiều dịch vụ y khoa khác nhau. Tiên lượng xấu, giống như trầm cảm mãn tính tái phát và tái cơn hay bắt đầu sa sút trí tuệ, có thể được tiên đoán phụ thuộc những thông số lâm sàng hoặc sinh học khác nhau, chẳng hạn thời gian bị bệnh ngày nay hoặc trước kia dẫn dài, mức độ trầm trọng của các triệu chứng trầm cảm, nhiều cơn trầm cảm trong bệnh sử, trầm cảm kép (double depression), khởi đầu công đoạn trầm cảm đầu tiên ở tuổi già (65 tuổi), hoang tưởng, suy giảm hoạt động nhận thức, các bệnh cơ thể kèm theo, chấn thương tâm lý trong đời sống và các dị thường về pic hệ thần kinh.
Có nhiều những can thiệp tâm lý thế giới dành cho trầm cảm ở người già, gồm có liệu pháp group, liệu pháp nhận thức, khắc phục chủ đề, tăng trưởng cường giúp đỡ thế giới, liệu pháp nhạc. Nhiều chứng cớ cho thấy, đối với trầm cảm nặng, những can thiệp về tâm lý xã hội có hiệu quả.
Những liệu pháp sinh học đóng một vai trò cần thiết trong việc điều trị trầm cảm nghiêm trọng ở tuổi già. Có chứng cớ cho thấy SSRIs hoặc những thuốc ức chế có thể đảo ngược của monamine oxidase (RIMAs) có kết quả tương tự giống như TCAs, có mức độ dung nạp tốt hơn. Các thuốc này nên bắt đầu bằng liều thấp và tăng trưởng dần.
Lithium đóng vai trò cần thiết trong những rối loạn đơn cực hoặc lưỡng cực và đủ sức là một công thức tăng trưởng hiệu quả ở những bệnh nhân không cung cấp với thuốc chống trầm cảm. Chứng cớ cho thấy liệu pháp choáng điện có kết quả và an toàn nhất dành cho bệnh nhân lớn tuổi bị trầm cảm nặng có nét loạn thần và/hoặc tự sát.
tóm lại, bí quyết nhận biết và điều trị trầm cảm ở người cao tuổi bao gồm những chẩn đoán rõ ràng về trầm cảm ,nhận ra được trầm cảm che dấu, điều trị bệnh cơ thể kèm theo, giảm đa trị liệu, phát hiện trầm cảm phối hợp với suy yếu hoạt động nhận thức, lựa chọn thuốc dựa trên bức xúc phụ, hiệu quả điều trị của những giai đoạn trước và những bệnh cơ thể xảy ra song song, áp dụng quy tắc “khởi đầu với liều thấp và tăng trưởng dần đến liều điều trị thích hợp”, theo dõi nồng độ huyết tương của thuốc khi cần, dùng ECT nếu cần và không quên điều trị phối hợp với những bí quyết không sử dụng thuốc.
TRẦM CẢM VÀ BỆNH CƠ THỂ
Xảy ra cùng lúc trầm cảm và bệnh cơ thể đã được báo cáo. người đọc ước lượng trầm cảm xảy ra ở 14-56% bệnh nhân bị bệnh cơ thể. Sự khác biệt tìm thấy đủ nội lực được xem là do những không giống biệt ở tình trạng bệnh nhân, sự khác biệt trong phương thức lượng giá trầm cảm hoặc sự trùng lặp lên nhau giữa triệu chứng trầm cảm và triệu chứng bệnh cơ thể. Sự tương tác giữa bệnh cơ thể và bệnh trầm cảm là một hiện tượng khó khăn, nhiều nguyên nhân sinh học, tâm lý học hoạc hoàn cảnh được đề cập.
Bởi vì những rối loạn khí sắc thường gặp, trầm cảm nguyên phát đủ nội lực xuất hiện đồng thời với bệnh cơ thể mà k có liên hệ nhân quả. Trầm cảm thứ phát được coi là hậu quả của một bệnh cơ thể hoặc là phản ứng phụ của thuốc điều trị. Sự khác nhau giữa trầm cảm nguyên phát và thứ phát thì rất khó phân biệt. Trong DSM-IV, việc phân loại chẩn đoán “Những rối loạn khí sắc do một bệnh lý y khoa tổng quát”(trầm cảm thứ phát) gồm có chủ yếu những giai đoạn trầm cảm k điển hình được cho là do những hậu quả sinh lý học trực tiếp của một bệnh lý y khoa tổng quát. Sự rối loạn khí sắc này liên hệ với một bệnh lý y khoa tổng quát qua một cơ chế sinh lý học và phải có một sự phù hợp về thời gian lúc khởi đầu bệnh, sự trầm trọng hoặc sự thuyên giảm của bệnh lý y khoa tổng quát và rối loạn khí sắc.
Nhiều bệnh cơ thể có thể gây ra những triệu chứng trầm cảm hoặc làm gia tăng nguy cơ xuất hiện trầm cảm. Những bệnh cơ thể này bao gồm những bệnh về thần kinh (ví dụ: Parkinson, Huntington, đột quỵ, sa sút tâm thần, u não, chấn thường đầu, động kinh, chứng sơ cứng lan tỏa), những bệnh nội tiết (ví dụ: tăng và giảm tuyến thượng thận, tăng trưởng và giảm tuyến giáp, tăng trưởng và giảm tuyến cận giáp, suy buồng trứng và tinh hoàn, suy tuyến yên), rối loạn tim mạch (ví dụ: nhồi máu cơ tim, bệnh lý cơ tim, suy tim), những rối loạn chuyển đổi và huyết học (ví dụ: thiếu vi-ta-min B12, giảm natri trong máu, tăng calcium trong máu, thiếu máu, bệnh bạch cầu), những bệnh nhiễm virus khác( ví dụ: viêm gan, bạch cầu đơn nhân, AIDS), bệnh lý tự miễn (ví dụ: bệnh Lupus đỏ hệ thống), ung thư( ví dụ: ung thư tuyến tuỵ).
Nhiều thuốc được dùng trong các bệnh cơ thể có thể gây ra các triệu chứng trầm cảm. Những thuốc này gồm có những thuốc ức chế giao cảm (ví dụ: reserpine, ? Methyldopa, clonidine),ức chế ? (Ví dụ: propranolol, timolol, nadolol), corticosteroid, những thuốc lợi tiểu (ví dụ: thiazides) ức chế calcium (ví dụ: verapamil, diltiazem, nifedipine), thuốc ngừa thai dạng uống (ví dụ: mestranol, lynestrol ), những thuốc chống virus (ví dụ: amantadine, acyclovir, ? Interferon), thuốc giãn mạch (ví dụ: flunarizine, cinnarizine).
Trầm cảm xảy ra cùng với một bệnh cơ thể được điều trị bằng các liệu pháp hóa dược hòa hợp liệu pháp tâm lý. Điều trị bằng thuốc gồm có thuốc chống trầm cảm hoặc phối hợp với thuốc chống loạn thần (hữu hiệu trong trầm cảm hoang tưởng),hoặc benzodiazepines (được dùng cho trầm cảm kích động). SSRIs và RIMAs là thuốc được chọn lựa điều trị trầm cảm.
PHÒNG NGỪA SỰ TÁI PHÁT VÀ TÁI DIỂN CỦA TRẦM CẢM
Trầm cảm cấp tính là một tình trạng đủ sức điều trị khỏi ở 80% bệnh nhân. bên cạnh đó , phần lớn những người bị trầm cảm có nguy cơ cao xuất hiện cơn trầm cảm tái diễn, cần thiết phải điều trị dài hạn nhằm mục tiêu phòng ngừa. vì thế ,trầm cảm là một vấn đề sức khỏe cộng đồng.
Những rối loạn khí sắc khi tái diễn dưới hai thể lâm sàng: rối loạn trầm cảm đơn cực có đặc điểm là có một hay nhiều hơn những công đoạn trầm cảm và rối loạn lưỡng cực với đặc điểm những giai đoạn trầm cảm xen kẽ những công đoạn hưng cảm nặng, hưng cảm nhẹ hoặc hỗn hợp. Trong trầm cảm đơn cực ,sự phòng ngừa việc tái phát và tái diễn đã trở thành một ưu tiên lâm sàng hàng đầu.
Việc phòng ngừa tái phát khi điều trị thành đạt giai đoạn trầm cảm bây giờ nên kéo dài 6-9 tháng. mục tiêu phòng ngừa tái diễn nhằm giảm rủi ro khởi phát một công đoạn trầm cảm mới, chỉ được đặt ra và áp dụng cho người bệnh có từ 2 hoặc nhiều cơn trầm cảm.
1. Phòng ngừa tái phát:
Điều trị sớm giai đoạn trầm cảm có ý nghĩa trong việc rút ngắn thời gian cơn ở người bệnh bị trầm cảm tái diễn. Một công đoạn trầm cảm k được điều trị thường được kéo dài 6-12 tháng trong khi phần đông những trường hợp được điều trị cơn dẫn dài khoảng 3 tháng. Điều trị với quá đủ liều thuốc CTC nên được tiếp tục 6 tháng sau khi đã có đáp ứng trước nhất và sự thuyên giảm các triệu chứng cấp. phương pháp điều trị này cho phép sự phục hồi hoàn toàn của công đoạn trầm cảm và phòng ngừa sự tái phát.
Có chứng cớ cho rằng TCAs vẫn có vai trò quan trọng trong điều trị người bệnh trầm cảm nghiêm trọng (thể sầu uất/melancholic/endogenous). tuy nhiên TCAs thường có nhiều nguy cơ gây chức năng phụ tim mạch nhất là ở những bệnh nhân đang có bệnh lý tim mạch trước kia.
Những thuốc CTC thế hệ mới (SSRIs, SNRIs, …) được lựa chọn trước tiên cho giai đoạn trầm cảm nặng vì những tác dụng phụ nhẹ và tương đối an toàn khi quá liều. Thuốc MAOIs đủ nội lực được dùng ở người bệnh trầm cảm không điển ảnh với nổi bật lo âu, kích động, mất ngủ và easy bực bội. không những thế về phương diện tác dụng phụ và tương tác thuốc của MAOIs, thường sử dụng loại MAOIs mới tập hợp và đủ sức đảo ngược (RIMA) như: moclobemide.
2. Phòng ngừa tái diễn:
nguy cơ tái diễn cơn gia tăng khi có sự xuất hiện của các triệu chứng trầm cảm di chứng, đi kèm với loạn khí sắc (dysthymia), lạm dụng rượu và thuốc, lo âu, xuất hiện cơn trước tiên ở người già, tiền sử có nhiều cơn trầm cảm và thời gian hồi phục khí sắc ngắn.
Điều trị phòng ngừa trầm cảm ở bệnh nhân lưỡng cực với thuốc ổn định khí sắc như Lithium có hiệu quả trên chất lượng cuộc đời của người bệnh, giảm tái diễn, cấp độ nặng của các cơn trầm cảm sau này và giảm rủi ro tự sát. thêm nữa, ở những bệnh nhân trầm cảm kháng trị, đủ nội lực gia tăng hiệu quả thuốc CTC với sự phối hợp Lithium. k nên ngừng đột ngột Lithium vì có rủi ro tăng trưởng tái diễn. Vì khoảng cách quá ngắn giữa liều điều trị và liều gây độc của Lithium, theo dõi nồng độ trong máu rất quan trọng.
Thuốc chống động kinh giống như carbamazepine và valproate từ nhiều năm vừa mới được sử dụng giống như thuốc ổn định khí sắc nên được dùng thay thế cho Lithium khi k có hiệu quả hoặc k dung nạp được với Lithium hoặc những thể lâm sàng đặc biệt ( thể chu kì mau, suy thận). Có những chứng cớ gần đây cho thấy các thuốc chống động kinh mới như lamotrigine và gabapentin có hiệu quả phòng ngừa trong điều trị rối loạn lưỡng cực.
Liệu pháp tâm lý có vai trò quan trọng trong điều trị lâu dài trầm cảm. Liệu pháp tâm lý giữa cá nhân-cá nhân, trị liệu nhóm, trị liệu gia đình, … có quyền lợi giúp người bệnh thích nghi được với đời sống không gian, giúp họ tuân thủ điều trị và ngừa tái phát. Có chứng cớ cho thấy những trị liệu nói trên có thể hiệu quả trong phòng ngừa tái diễn (interpersonal psychotherapy). Liệu pháp nhận thức hành vi được coi là một trong những liệu pháp tâm lý hiệu quả nhất trong điều trị trầm cảm. Sự hòa hợp liệu pháp hóa dược và liệu pháp tâm lý cho thấy có lợi ích trong phòng ngừa ban đầu và phòng ngừa bước hai chủ yếu ở những bệnh nhân trầm cảm mức độ trung bình.
Nguồn: http://bvtt-tphcm.org.vn/